Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Sài Gòn – Chợ Lớn nổi lên bốn đại thương gia được mệnh danh là “Tứ đại phú hộ”, với câu nói dân gian “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Hỏa”. Họ không chỉ giàu nhất miền Nam mà còn thuộc hàng giàu nhất Đông Dương thời bấy giờ. Dưới đây là lịch sử, quá khứ, câu chuyện kinh doanh truyền cảm hứng, và những đức tính dẫn đến thành công của từng người, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh với người Pháp.
Lê Phát Đạt, thường gọi là Huyện Sỹ, được xem là người giàu nhất trong “Tứ đại phú hộ”. Ông sở hữu khối tài sản khổng lồ, chủ yếu từ bất động sản và nông nghiệp. Gia đình ông nắm giữ hàng ngàn hecta đất trù phú ở Gò Công, Long An, Tiền Giang, và Đồng Tháp Mười, kéo dài đến tận biên giới Campuchia. Giai thoại kể rằng “cò bay mỏi cánh cũng không hết đất của Huyện Sỹ”. Ông còn nổi tiếng với việc xây dựng Nhà thờ Huyện Sỹ (quận 1, TP.HCM) và Nhà thờ Chí Hòa (quận Tân Bình), với chi phí xây dựng nhà thờ Huyện Sỹ tương đương 1/7 gia sản của ông. Giai thoại khác kể rằng ông thuê một nhóm người để phơi tiền trong kho bí mật, tránh bị mốc, cho thấy mức độ giàu có “nứt đố đổ vách”. Người ta đồn rằng của hồi môn của cháu ngoại ông, Nam Phương Hoàng hậu, khi cưới vua Bảo Đại lên tới 20.000 lượng vàng, vượt xa tài sản hoàng gia.
Lê Phát Đạt sinh năm 1841 tại Cầu Kho, Sài Gòn, nhưng quê gốc ở Bình Lập, Tân An, Long An, trong một gia đình Công giáo nghèo khó. Thuở nhỏ, ông phải bươn chải, làm nghề lái đò chở lương thực thuê để phụ giúp gia đình. Nhờ thông minh và lanh lợi, ông được các tu sĩ Pháp đưa sang Penang, Malaysia, để học tập, nơi ông thành thạo tiếng Pháp, tiếng Latin, chữ Hán, và chữ Quốc ngữ. Vì trùng tên với một người thầy, ông đổi tên từ Lê Nhứt Sỹ thành Lê Phát Đạt, mang ý nghĩa “phát đạt”. Trở về Sài Gòn, ông làm thông ngôn, sau đó được bổ nhiệm làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, rồi được phong Huyện hàm, nên dân gian gọi là Huyện Sỹ.
Đỗ Hữu Phương, được phong Tổng đốc Phương, là con trai đại địa chủ Bá Hộ Khiêm, sở hữu hơn 2.200 ha đất đai ở phía bắc Sài Gòn, cùng hàng trăm căn nhà mặt tiền cho thuê. Thóc lúa trong nhà ông được mô tả “chất thành núi”, và gia đình có đội ngũ hơn 10 người chuyên đếm tiền để tránh mốc. Giai thoại kể rằng tài sản của ông “mấy đời ăn không hết”. Ông còn tài trợ xây dựng Trường Nữ sinh Áo Tím (nay là THPT Nguyễn Thị Minh Khai) vào năm 1915, một công trình giáo dục quan trọng thời bấy giờ. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Sen, cũng là một người kinh doanh tài ba, góp phần nhân đôi gia sản qua việc bán buôn lương thực.
Đỗ Hữu Phương sinh năm 1841 tại Chợ Đũi, Sài Gòn, là người gốc Minh Hương (người Hoa sinh sống lâu đời ở Việt Nam). Khác với Huyện Sỹ, ông sinh ra trong gia đình giàu có, được ví như “ngậm thìa vàng”. Cha ông, Bá Hộ Khiêm, là đại địa chủ Nam Kỳ, sở hữu khối tài sản khổng lồ từ đất đai và kinh doanh.
Tuy nhiên, Đỗ Hữu Phương không ỷ lại vào gia sản. Ông học chữ Hán, biết tiếng Pháp, và chọn con đường làm quan thay vì kinh doanh trực tiếp. Năm 1859, khi quân Pháp đánh Gia Định, ông lui về Bà Điểm, Hóc Môn, chờ thời cơ. Sau đó, ông được người Pháp bổ nhiệm làm Hộ trưởng Chợ Lớn, rồi thăng tiến lên nhiều chức vụ, cuối cùng được phong Tổng đốc hàm.
Lý Tường Quan, hay Bá Hộ Xường, là doanh nhân gốc Hoa nổi tiếng với việc kinh doanh lương thực, thực phẩm, và thịt cá xuất khẩu. Ông sở hữu nhiều biệt thự ở Chợ Lớn, xây dựng để cho thuê và bán. Giai thoại kể rằng gần một nửa dân miền Tây từng mua nhu yếu phẩm từ ông. Ông để lại khu lăng mộ tại quận Tân Phú, TP.HCM, với kiến trúc Gothic kết hợp Á Đông, được xem là một di sản nghệ thuật quý giá. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời, con cháu không giữ được cơ nghiệp, tiêu xài phung phí khiến gia sản dần tan biến.
Lý Tường Quan, tự Phước Trai, sinh năm 1842 tại Chợ Lớn, trong một gia đình gốc Hoa. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tài năng, thông thạo tiếng Hoa, tiếng Pháp, và tinh thông cầm kỳ thi họa. Ông từng làm thông ngôn cho người Pháp, rồi đảm nhận nhiều chức vụ trong chính quyền thuộc địa.
Tuy nhiên, không muốn chỉ là một viên chức, ông từ bỏ công việc để dấn thân vào thương trường. Ông khởi nghiệp với việc buôn bán lương thực, sau đó mở rộng sang bất động sản.
Hui Bon Hoa, hay Chú Hỏa, là người gốc Hoa nổi tiếng với gia sản bất động sản khổng lồ, sở hữu khoảng 20.000 căn nhà ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Ông xây dựng nhiều công trình biểu tượng như Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM (tòa nhà 99 cánh cửa), Khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ, và Trung tâm Cấp cứu Sài Gòn.
Công ty Hui Bon Hoa được quản lý chặt chẽ, với quy định con cháu phải có chữ ký của trưởng tộc để rút tiền lớn, giúp gia sản không bị phân tán. Giai thoại kể rằng ông khởi nghiệp từ nghề ve chai, nhặt được túi vàng hoặc tượng đồng chứa vàng, từ đó làm giàu. Tuy nhiên, các tài liệu xác thực hơn cho rằng ông bắt đầu từ tiệm cầm đồ và hợp tác với người Pháp trong ngành bất động sản.
Hui Bon Hoa, tên thật Huỳnh Văn Hoa, sinh năm 1845 tại Phúc Kiến, Trung Quốc, và theo đạo Công giáo. Ông sang Việt Nam từ nhỏ, khởi nghiệp với nghề mua bán ve chai, sống trong cảnh nghèo khó. Một số tài liệu cho rằng ông được một ông chủ người Pháp giúp đỡ, hỗ trợ mở tiệm cầm đồ đầu tiên tại góc đường Phó Đức Chính và Nguyễn Thái Bình, Sài Gòn. Từ đó, ông tích lũy vốn và chuyển sang kinh doanh bất động sản, hợp tác với người Pháp trong công ty cầm đồ và địa ốc Hui Bon Hoa & Ogliastro.
Độ giàu có: Sở hữu hàng ngàn hecta đất ở Gò Công, Long An, Đồng Tháp Mười; xây Nhà thờ Huyện Sỹ, Nhà thờ Chí Hòa. Giai thoại kể ông thuê người phơi tiền để tránh mốc. Của hồi môn cháu ngoại (Nam Phương Hoàng hậu) lên tới 20.000 lượng vàng.
Quá khứ: Sinh ra trong gia đình Công giáo nghèo ở Tân An, Long An; làm lái đò kiếm sống. Được tu sĩ Pháp đưa sang Malaysia học, thông thạo nhiều ngôn ngữ.
Kinh doanh: Đầu tư bất động sản và nông nghiệp; chia đất cho con cái quản lý, như Denis Lê Phát An ở Gò Vấp. Sống cần kiệm, cho con du học Pháp.
Đức tính: Học vấn cao, kiên trì, nhẫn nhịn, tầm nhìn dài hạn, nhân ái (xây nhà thờ, hỗ trợ nông dân).
Độ giàu có: Sở hữu 2.200 ha đất, hàng trăm nhà mặt tiền; thóc lúa “chất thành núi”. Tài trợ trường Nữ sinh Áo Tím (THPT Nguyễn Thị Minh Khai).
Quá khứ: Sinh ra trong gia đình đại địa chủ Bá Hộ Khiêm; học chữ Hán, biết tiếng Pháp. Làm quan cho Pháp, thăng Tổng đốc hàm.
Kinh doanh: Xây hệ thống bán buôn lương thực; vợ ông, bà Nguyễn Thị Sen, hỗ trợ kinh doanh. Làm trung gian hối lộ, tích lũy vốn.
Đức tính: Tầm nhìn tiến bộ, khéo léo ngoại giao, hợp tác gia đình, nhẫn nại chờ thời cơ.
Độ giàu có: Kinh doanh lương thực, thịt cá xuất khẩu; sở hữu biệt thự ở Chợ Lớn. Để lại lăng mộ kiến trúc Gothic-Á Đông. Con cháu tiêu xài làm gia sản tan biến.
Quá khứ: Gốc Hoa, thông thạo tiếng Hoa, Pháp; làm thông ngôn trước khi kinh doanh.
Kinh doanh: Buôn bán lương thực, bất động sản; lấy lòng quan chức Pháp để hỗ trợ kinh doanh.
Đức tính: Thông minh, nhạy bén, khéo léo ngoại giao, quyết đoán.
Độ giàu có: Sở hữu 20.000 căn nhà; xây Bảo tàng Mỹ thuật, Khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ. Công ty Hui Bon Hoa quản lý chặt chẽ, giữ gia sản nguyên vẹn.
Quá khứ: Gốc Hoa, khởi nghiệp từ ve chai; được ông chủ Pháp hỗ trợ mở tiệm cầm đồ.
Kinh doanh: Mua đất giá rẻ ở trung tâm Sài Gòn, dự đoán quy hoạch; hợp tác với người Pháp trong bất động sản và cầm đồ.
Đức tính: Tầm nhìn xa, cần cù, khéo léo hợp tác, quyết đoán.
Nhà thờ Huyện Sỹ (quận 1, TP.HCM): Nhà thờ Gothic-Á Đông, xây năm 1882, là di sản kiến trúc và điểm tham quan nổi tiếng.
Nhà thờ Chí Hòa (quận Tân Bình): Nhà thờ giáo xứ, phục vụ cộng đồng Công giáo.
Đất đai: Sở hữu hàng ngàn hecta ở Gò Công, Long An, Đồng Tháp Mười; vùng Hạnh Thông Tây (Gò Vấp) gắn với con trai Denis Lê Phát An.
Di sản văn hóa: Cháu ngoại Nam Phương Hoàng hậu, với của hồi môn 20.000 lượng vàng.
Trường Nữ sinh Áo Tím (THPT Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3): Xây năm 1915, là trường nữ sinh đầu tiên, biểu tượng giáo dục tiến bộ.
Đất đai: Sở hữu 2.200 ha ở Chợ Đũi, Bà Điểm, và nhà mặt tiền cho thuê.
Lăng mộ Lý Tường Quan (quận Tân Phú): Công trình Gothic-Á Đông, là di tích văn hóa.
Biệt thự và nhà phố: Nhiều căn nhà ở Chợ Lớn, góp phần tạo bản sắc kiến trúc Hoa kiều.
Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM (quận 1): Dinh thự 99 cánh cửa, xây 1929-1934, phong cách Á Đông-Art Deco, nay là bảo tàng nghệ thuật.
Khách sạn Majestic (quận 1): Xây năm 1925, khách sạn 5 sao, biểu tượng xa hoa của Sài Gòn.
Bệnh viện Từ Dũ (quận 1): Xây năm 1937, bệnh viện phụ sản hàng đầu Việt Nam.
Trung tâm Cấp cứu Sài Gòn (quận 5): Hỗ trợ y tế khẩn cấp, vẫn hoạt động.
Bất động sản: Sở hữu 20.000 căn nhà ở Sài Gòn – Chợ Lớn, góp phần định hình đô thị.
Kiến trúc: Công trình giao thoa văn hóa Việt, Hoa, và phương Tây, là di sản quý giá.
Giáo dục và y tế: Trường Áo Tím, Bệnh viện Từ Dũ nâng cao chất lượng sống.
Bất động sản: Định hình đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn.
Văn hóa: Giai thoại và di sản của “Tứ đại phú hộ” là nguồn cảm hứng lịch sử.
Tác giả bài viết: BBT Vinastrategy.com tổng hợp
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn